Văn kiện mới nhất của LM Nguyễn Văn Lý

Publié le par Bienxua

Văn kiện mới nhất của LM Nguyễn Văn Lý
Phác thảo chân dung
Người Chiến sĩ Hòa bình Việt Nam hôm nay
(có bổ sung)

Tađêô Nguyễn Văn Lý - 30.4.2006 – TNLT Lm30.5.2010

 

     Mọi người thiện chí khắp nơi trên thế giới và mọi người Việt Nam trong cũng như ngoài Nước có tâm huyết với Quê hương đều cháy bỏng khao khát có một Tổ quốc VN biết chôn vùi thành công chủ nghĩa và chế độ cộng sản vĩnh viễn vào quá khứ cách văn minh, ôn hòa ; chuyển đổi chế độ CS hiện hành thành một chế độ đạo đức, công bằng, dân chủ thật sự để toàn Dân sống đạo đức, an bình, tự do, thịnh vượng.

            Muốn đạt được điều này, cần phải có một thế hệ chiến sĩ hòa bình đích thật. Người viết xin đề nghị một số nét phác thảo chân dung lớp người chiến sĩ hòa bình (NCSHB) thích hợp cho Đất nước Việt Nam hiên nay.
 
            1- Có một đời sống tâm linh và khiêm tốn vững chắc :

            Hòa bình không phải là hết chiến tranh. Hòa bình không phải chỉ là có đủ cơm ăn, áo mặc, nhà ở, xe cộ, bệnh viện, trường học, sân vận động, nhà hát,... Hòa bình trước hết và trên hết là một trạng thái tâm hồn an vui thanh thản với bản thân, từ hòa và nhân ái với người khác cận kề xung quanh trong một môi trường xã hội đạo đức lành mạnh và thân mật tâm giao với Thượng Đế là Cha Nhân Từ vô cùng và thật sự của mình.

            Do đó, NCSHB đích thực, trước khi có khả năng đưa hòa bình đến cho Dân tộc, phải là người hòa bình thực sự từ trong tâm khảm sâu xa của mình ; phải có một đời sống thiền định - cầu nguyện ổn định bền vững : mỗi ngày ít nhất phải có 30-60 phút dành cho việc tâm sự với Đấng Tạo Hóa, hồi tâm nhận định lại bản thân và sám hối.

            Không có việc tối thiểu này, dứt khoát không thể làm chiến sĩ hòa bình được, mà chỉ là người ảo tưởng chỉ muốn dựa vào nỗ lực nhân bản để giải quyết vấn đề hòa bình, thậm chí chỉ thích la lối, thóa mạ người khác và khi có điều kiện thì đương nhiên thích đấm đá và dùng bạo lực để nói là xây dựng hòa bình chứ thực ra là chỉ tạo nên lầm lạc, xáo trộn, bất ổn, bất công và chiến tranh mà thôi (kinh nghiệm vô cùng xót xa của cách thức dùng bạo lực chiến tranh để giải quyết vấn đề hòa bình cho Việt Nam từ 80 năm qua hẵn đã quá đủ cho chúng ta rồi).

            Cần có một thứ tự ưu tiên về thời giờ và công việc hòa bình : Thượng Đế, Tha nhân và Bản thân. Đảo ngược lại chắc chắn sẽ chỉ dẫn đến ích kỷ, khủng hoảng và thất bại ngay không biện minh được.

            Chính nhờ đời sống tâm nguyện và khiêm tốn mà NCSHB kiên vững trong mọi thử thách, biết vượt qua các trở ngại, phục hồi khi vấp sai lầm, không sợ hãi bất cứ đe dọa nào, kể cả các lầm lỗi của chính bản thân.

            NCSHB có đời sống tâm nguyện không sợ bị tra tấn, đánh đập, đói khát, tù đày, khủng bố, vu khống, mạ lỵ,... chỉ sợ một điều duy nhất là chính mình làm điều sai trái. Nhưng tội lỗi cũng không đáng sợ, vì đã có đời sống sám hối giúp phục hồi đời sống tâm giao thân mật với Thượng Đế rồi. Cuối cùng, NCSHB không còn bất cứ đối tượng nào để sợ.

            Ai tự hào rằng mình tự nỗ lực để tự giải quyết các vấn đề này, người đó đã thất bại ngay từ đầu. Cần khiêm tốn nhận ra giới hạn rất mong manh của bản thân để luôn coi mình là hèn kém, phải có sự soi dẫn nâng đỡ của Thượng Đế và của tập thể cộng đồng. Càng khiêm tốn càng là chiến sĩ hòa bình.

            2- Sống công bằng, trong sạch và nhân từ :

            Một vấn đề nhạy cảm vào bậc nhất là các cộng sự viên cũng như quần chúng rất quan tâm đến tính công bằng ngay thẳng trong vật chất và các quyền lợi của người khác. Do đó, điều đầu tiên NCSHB cần lưu tâm là lo sao cho mình được uy tín trong ngân khoản và tài sản chung. Cần hiểu cho thật đúng rằng : tài sản là của nhân loại, những gì mình có trong tay là của muôn người được Tạo Hóa ký thác cho mình quản lý và phân phối sao cho công minh, chứ không phải mình được toàn quyền phung phá mặc sức.

            Khi có nhiệm vụ quản lý thì hiểu rằng mình chỉ là cái máng chuyển thông tài sản : máng thì phải dốc để tài sản lưu thông nhanh. Lưu thông xong là máng phải khô không tồn đọng. Ngoài việc phải sống công bằng về của cải vật chất là điều dễ thấy, còn cần công bằng về các tài sản khác như danh dự, tình cảm, ngôn ngữ là những giá trị còn quí giá hơn vật chất gấp ngàn lần. Công bằng trong mọi lãnh vực chính là sống trong sạch ngay từ trong tâm ý : Chính ý, chính niệm, chính ngôn, chính hành.

            Công bằng là không gây ra bất công cho ai. Nhưng như vậy chưa đủ. Sống tốt với người xung quanh còn cần phải từ hòa : nhân từ và khoan hòa. Nếu phê phán cộng sản là gian ác mà chúng ta thiếu nhân từ thì khi đã có quyền lực chúng ta cũng sẽ gian ác không kém. Nếu phê phán cộng sản là độc tài mà chúng ta thiếu khoan hòa thì khi nắm quyền chúng ta cũng sẽ độc tài như thế hoặc tệ hại hơn.

            Chỉ biết đòi công bằng mà thiếu nhân từ thì chắc chắn sẽ tạo nên bất công khác và xã hội lại mất ổn định. Nhờ lòng nhân ái như hoa trái mà công bằng trở thành công minh, tức công bằng trong sáng suốt. Cuộc sống an vui nhờ lòng nhân từ, hơn là chỉ nhờ công minh.

            3-  Có nhận thức và thái độ chuẩn xác với chủ nghĩa và chế độ CSVN :

            Đây là vấn đề phức tạp và khó khăn nhất không chỉ đối với toàn Dân, những người Dân bình thường mà ngay cả giới trí thức, sĩ phu, chức sắc các Tôn giáo (TG) và đối với cả chính cấp lãnh đạo cộng sản nữa.

            • Chủ nghĩa và chế độ CSVN tốt hoặc xấu đến mức nào ? Phải có thái độ đúng đắn nào với chủ nghĩa và chế độ ấy ? Bao nhiêu năm, bao nhiêu người mơ hồ và ảo tưởng về vấn đề này, dẫn đến nhiều lựa chọn lầm lạc, tác hại không những cho bản thân mà còn cho cả Dân tộc đến những 80 năm qua. Đây cũng chính là thảm họa của các TG tại VN. Lẽ ra các TG phải là đuốc soi đường cho toàn Dân lựa chọn, nhưng đáng tiếc là vì nhiều lý do rất phức tạp, hầu hết các TG tại VN đã chưa làm được điều này, chẳng những khiến cho TG mình bị phân hóa, biến chất và thoái hóa lắm khi rất trầm trọng, mà còn làm cho toàn Dân lầm lạc theo.

            Lẽ ra các TG phải thống nhất nhận thức và thái độ đối với chủ nghĩa và chế độ CSVN cách vững chắc và đầy đủ, rồi mới nghĩ đến việc phát triển. Thực tế, hầu hết các TG tại VN đều đã làm ngược lại, là đang khi chưa thể tìm ra con đường thống nhất nhận thức và thái độ đối với chủ nghĩa và chế độ CSVN, mà lại chỉ quá hăng say muốn phát triển. Kết quả là sự lựa chọn rất tùy tiện của từng nhà lãnh đạo đơn lẻ đã làm cho việc thỏa hiệp với Cộng sản ngày càng trở nên phổ biến.

            Thay vì cần làm ĐÚNG VIỆC, ai nấy đều chỉ thích làm ĐƯỢC VIỆC dù phải trả các giá quá đắt di lụy lâu dài và rất trầm trọng cho lịch sử muôn đời. Quá nhiều người, kể cả một số Chức sắc TG, sử dụng “bao thư”, “lót tay”, “bôi trơn” ; tham dự các buổi họp hình thức vô bổ hoặc tác hại, hiện diện các “meeting trọng thể”, phát biểu, làm văn,... ca tụng không biết ngượng... một cách quá tự nhiên, thông thạo, thành nếp, coi như là đương nhiên phải thế, không thể khác !!!

            Sử dụng các từ “giải phóng, ngụy quân, ngụy quyền” một cách quen thuộc thiếu ý thức không còn sỉ diện gì nữa, dù “cha mẹ mình, chú bác mình, bạn hữu mình,...” vốn là các Chiến sĩ - kể cả 158 Chiến sĩ đã tử trận để bảo vệ không thành công quần đảo Hoàng Sa năm 1974 (trong khi quân xâm lược phương Bắc lại được gọi là các "đồng chí cao cả Bắc triều") - anh dũng gian khổ trăm bề, đã từng đổ xương máu bảo vệ mình một thời bình yên để ăn học, tu luyện... trong mấy chục năm trời !!!

            • Ngày nay, với những bằng chứng quá rõ về sự sai lầm của CSVN, không chỉ trong một số công việc, mà sai lầm tận trong bản chất học thuyết và phạm các tội ác đặc biệt nghiêm trọng cách có hệ thống và kéo dài gần cả thế kỷ, như Nghị quyết 1481 ngày 25-01-2005 của Nghị viện Hội đồng Châu Âu gồm 46 Nước vừa khẳng định, thế mà nhiều người vẫn được coi là “trí thức, sĩ phu” vẫn chưa dứt khoát được trong nhận thức là CSVN thực sự tốt hay xấu ? Một hệ thống bạo quyền như vậy mà tiếc thay một số người vẫn còn mơ hồ cho là cần thiết sao ? Thực ra nó đã quá hãi hùng cho toàn Dân VN rồi !!!

            • NCSHB, dựa vào những kiến thức quân bình, xác thực, những thông tin rộng rãi đa phương, nhìn thẳng vào thực tế Việt Nam hôm nay (2010), bình tĩnh tìm mọi phương cách ôn hòa - văn minh, chỉ nguyên bằng lời nói và chữ viết (không la lối, thóa mạ, cường điệu, chửi rủa...), để quyết tâm nỗ lực chấm dứt CSVN, chuyển đổi Quê hương theo kinh nghiệm thành công của đại đa số các Nước văn minh toàn cầu, đặc biệt là các Nước Bắc Âu.

            4- Có tâm hồn luôn hòa bình nhân từ :

            NCSHB không có hận thù với bất cứ ai. Kiên quyết lên án tội ác, độc đoán, nhưng luôn đầy cảm thông và trắc ẩn đối với nhân viên của bạo quyền. Với các Anh hùng Dân tộc chính danh và các người lành thánh, NCSHB luôn cảm phục. Còn đối với các đối tượng khác, NCSHB nên luôn biết cảm thông. Ngoài ra NCSHB không cần có thái độ thứ 3. Chỉ nguy hại. Chính tâm hồn hòa bình làm tăng sức chiến đấu cho chúng ta, khiến chúng ta trở nên vô địch.

            5- Biết sử dụng Internet :

            Mọi chế độ độc tài và nhất là CSVN dùng sự bưng bít, xuyên tạc, dối gạt thông tin và sự sợ hãi của toàn Dân, kể cả sự sợ hãi của chính chủ tịch đảng, chủ tịch nước, để kéo dài sự thống trị và nô dịch Dân.

            Vì vậy, Thông tin Ngôn Luận là vũ khí lợi hại nhất để giúp Dân thắng nỗi sợ hãi truyền kiếp và nhận thức đúng Sự Thật của Đất nước. Từ đó, Dân sẽ biết cách tập hợp thành sức mạnh để giải thể Chế độ CS. (Tìm đọc “Làm sao thắng sợ hãi” ngày 24-8-2005 của Lm Nguyễn Văn Lý).

            Bởi vậy, nhất là trong thời đại thông tin toàn cầu hiện nay, NCSHB phải thông thạo sử dụng Internet, phải coi Internet là vũ khí lợi hại nhất để thắng gian tà một cách hợp pháp mà bạo quyền CS rất khó đối phó. Lý do là vì CSVN dù biết Internet là tử huyệt của mình, vẫn buộc lòng phải giao lưu với Quốc tế và vẫn phải rêu rao với Quốc tế rằng VN là văn minh thông thoáng.

            NCSHB phải biết dựa vào điều 5,1 ; 5,2 và 19,2 của Công ước Quốc tế về các quyền Dân sự và Chính trị của Liên Hiệp Quốc ; mục I, 2 chương II của Sách Trắng về Nhân quyền - Thành tựu bảo vệ và phát triển quyền con người ở Việt Nam : “Chính phủ Việt Nam chủ trương khuyến khích và tạo mọi điều kiện để người Dân tiếp cận, khai thác và sử dụng rộng rãi thông tin trên mạng Internet” để tận dụng Internet.

            Vì tất cả mọi hạn chế về Internet, nếu có, đều trái với nguyên tắc này của Sách Trắng do Bộ Ngoại giao Nước CHXHCNVN công bố tại Hà Nội, ngày 18.8.2005 và Công ước Quốc tế về các quyền Dân sự và Chính trị của Liên Hiệp Quốc được biểu quyết ngày 16.12.1966, Việt Nam xin tham gia ngày 24-9-1982.

            6- Đi vào một kế hoạch thực tế do một tập thể nào đó chỉ đạo sát với tình hình Đất nước :

            Không mơ hồ, hoang tưởng, không cầu toàn, không sử dụng bạo lực trong ngôn từ cũng như trong hành động, không do dự chần chừ, không quá dè dặt đa nghi đâu cũng thấy “cò mồi”/ “chó săn” / “đấu tranh cuội” / “tay sai CS”.

            Mặc dù NCSHB chỉ liên kết với những ai biết dứt khoát với ông Hồ Chí Minh và chủ nghĩa Cộng sản như một điều kiện duy nhất, không mơ hồ trong vấn đề rất cơ bản này, nhưng NCSHB phải mạnh dạn tin vào lương tri lành mạnh của người Dân bình thường đã biết thế nào là CS, luôn thao thức cho một tương lai của Đất nước sớm tươi sáng hơn ; biết tin tưởng vào một tập thể tương đối chưa lý tưởng, chỉ cần cùng một tâm ý và có một ban điều hành tạm biết làm việc ; có tinh thần đoàn kết, trung thực và kỷ luật.

            Dần dần tập thể ấy sẽ biết liên kết với các tập thể khác để trở thành các liên minh lớn mạnh hơn hầu từng bước giành lại 26 Nhân quyền cơ bản cho toàn Dân VN (Các tài liệu nền tảng của Khối 8406, số 4, trang 8-9). Chính phong trào sẽ tự đào tạo ra các nhà lãnh đạo có đường lối và phương cách dẫn đến thành công.

            7- Thái độ khi đối diện với bạo quyền CSVN :

            7.1- Công An / Cán bộ CS đến thăm tại nhà : bước đàn áp 1 :

            Trong chế độ CS, khi Cán bộ / Công an của tà quyền / bạo quyền (từ đây xin gọi chung là CB, Dân quen gọi là Cá) đến thăm tại nhà, sự thường ai cũng lo sợ. NCSHB cần ứng xử thật chuẩn như sau :

            • CB đến thăm tại nhà tức là mới đàn áp bước 1, là tìm cách tiếp cận chúng ta để chỉ thăm dò tìm phương án. Chưa có gì nghiêm trọng.

            • Vừa cầu nguyện, vừa bình tĩnh, lịch sự trong tâm ý chủ động chinh phục CB, chiến thắng sự quấy rối tâm trí (mind harassment) của bộ máy công quyền chuyên đàn áp, khủng bố Dân rất điêu luyện.

            • Chủ yếu lắng nghe, nói rất ít hoặc cố gắng yên lặng tối đa để xem thâm ý các CB muốn gì. Tuyệt đối tránh hấp tấp cãi lại, nổi nóng sẽ sinh nhiều sơ hở. Thường CB không đủ lý do chính đáng trong lương tâm để đàn áp Dân, nên hay vòng vo rất lòng thòng trước khi để lộ thâm ý là tìm cách để đàn áp chúng ta về một vấn đề gì đó.

            Chúng ta hãy để yên cho CB chiếm đoạt thời giờ quý giá của chúng ta để CB tự cảm thấy đã mắc nợ chúng ta, đã gây ra “mind harassment” chúng ta cách phi pháp. Đó là nguyên cớ để lần sau chúng ta có lý do khước từ sự “mind harassment” cách bất công ấy.

            • Hãy hết sức ôn tồn, nhỏ nhẹ để tránh trả lời các vấn đề xét thấy các CB không có quyền dò hỏi bằng cách “tỏ ra ngạc nhiên” không hiểu chuyện đó liên quan thế nào đến “an ninh cho Tổ quốc” ? / tảng lờ cho CB bị mất thêm thời gian tìm cách vòng vo để nhập đề lại.

            Nếu cần trả lời, phải biết cách trả lời khôn ngoan sao cho kín đáo lạc đề chừng nào hay chừng đó để chứng tỏ mình đã quá mõi mệt khi được “phúc” công bộc của chế độ hạ cố đến tệ xá kiểu phát xít trá hình này, và chuyển được sự đã quá chán ngán của người Dân đối với chế độ vào tâm trí các CB đó, để họ phải lây nhiễm sự chán ngán ngay chính này.

            • Tránh hết sức để khỏi nhận lãnh ân huệ “chiếu cố giúp đỡ” của Tà quyền / Bạo quyền.
            7.2- Bị CB gửi “Giấy Mời”  đến cơ quan Bạo quyền : Bước đàn áp 2 :

             Có thể sẽ dẫn đến Lệnh Triệu tập. NCSHB nên đối phó và chủ động tấn công như sau :

            • Phải đi Photo ngay Giấy mời này để làm bằng chứng đấu tranh. Khi đến cơ quan (CA, UBND phường / xã) nên “để quên” Giấy mời bản gốc ở nhà, hoặc đã có bản Photo lưu ở nhà rồi.

            • Vì chúng ta cũng phải làm ăn sinh sống, nên nếu Giấy mời được gửi tới quá sát (chiều cùng ngày, hôm sau...), chúng ta không cần phải đi, vì phải thu xếp công ăn việc làm, không sợ sệt vu vơ. Mời tức chúng ta có quyền đi hoặc không.

            • Khi đã đoán biết nội dung cuộc gặp, chúng ta có quyền không đi. Trường hợp xét thấy đi chỉ thêm nguy hại, chúng ta không nên đi. Sau 3 lần không đi, có thể sẽ có Giấy Triệu tập vì lý do “không chấp hành” Giấy mời.

            • Đến cơ quan, NCSHB phải coi đây là cơ hội để chinh phục bạo quyền, không nôn nóng được về, không nôn nóng mong xong việc. CB còn nôn nóng hơn chúng ta và không hứng thú gì khi đàn áp chúng ta cả, chẳng qua cũng chỉ hèn hạ làm theo lệnh trên vì miếng cơm manh áo thôi. Hãy cố gắng kiềm chế để chỉ nghe và hầu như không cần trả lời hoặc kẹt lắm thì cũng chỉ rất ít trả lời và trả lời thật vắn tắt.

            Vì chúng ta chỉ sử dụng vũ khí bất bạo động và quyền tự do thông tin ngôn luận thôi, nên chúng ta không vi phạm luật pháp công minh nào hết. Các Bộ luật, Pháp lệnh, Nghị định, Nghị quyết, Thông tư,... của một Bạo quyền mâu thuẫn với các Công ước Quốc tế đều không có giá trị, vì chúng phải ở dưới các Công ước Quốc tế.

            Chúng thường cũng mâu thuẫn với Hiến pháp năm 1992 của chính Bạo quyền này nữa. Vậy chúng ta cứ bình tĩnh ngồi nhắm mắt cầu nguyện và lắng nghe xem CB ngụy biện thế nào, nói sơ hở ra sao. Nếu cần chúng ta tấn công nhẹ nhàng vào các chỗ sơ hở đó.

            Hãy tận dụng tối đa nguyên tắc “vô chiêu thắng hữu chiêu”, “tịnh chế động”. Hãy hiên ngang, bình tĩnh, nhỏ nhẹ để dùng chính nghĩa của mình mà chinh phục CB.

            • Tuy là được mời, nhưng vẫn để bị “thẩm cung”, lấy bằng chứng để CB xử lý chúng ta và bạn hữu chúng ta. Do đó, cần khôn ngoan ứng xử để thoát khỏi các loại “bẫy cung” của tà quyền. Càng phải im lặng và rất ít nói.

            Hãy cho CB biết rằng : Nếu chúng ta đang sống trong một Nước văn minh thì yêu cầu VN tuân thủ các Công ước Quốc tế. Nếu VN có pháp luật riêng mâu thuẫn với các Công ước ấy thì Nhà cầm quyền VN là một Bạo quyền độc đoán. Đối với một Tà quyền độc tài, chúng ta vui lòng chịu bất công, không thể đối thoại được, chỉ cần im lặng chịu bất công và nếu thấy hiệu quả cần thiết thì cho CB biết các bất công ấy, không cần nói thêm gì nữa.

            • Hãy từ chối viết tường thuật, ký các biên bản mà mình biết sẽ ràng buộc về pháp lý về sau.

            7.3- Bị “Triệu tập” : Bước đàn áp 3 :

            Đối với Bạo quyền, chúng ta bị “Triệu tập” tức là bị coi có “vấn đề” nghiêm trọng gì đó, cần điều tra, “giáo dục”,... Chúng ta chỉ nên có các thái độ như khi bị “Giấy Mời” thôi, nhất là phải photo lưu Giấy Triệu tập ; mấy lần là mấy bản lưu.

            • Bị triệu tập là đương nhiên phải bị “thẩm cung”. NCSHB lại càng cẩn trọng và biết sử dụng vũ khí vàng tuyệt vời là cầu nguyện trong im lặng, lãnh đạm và có thể bị cho là “khinh mạn”, dù NCSHB không bao giờ khinh miệt ai. Kể cả đối với đối phương, NCSHB chỉ thông cảm và dùng cầu nguyện, yên lặng làm vũ khí tự vệ và chiến thắng bạo quyền.

            • Dùng nguyên tắc của chính CSVN : “Dân được làm tất cả mọi việc Pháp luật không cấm, còn CB chỉ được phép làm những gì Pháp luật cho phép” để tự vệ và tố cáo lại các CB tác oai tác quái.

            7.4- Bị cắt điện thư, điện thoại,... : Bước đàn áp 4 :

            Phải làm cho bạo quyền biết biện pháp “phát xít” này vô ích trong thời đại thông tin bùng nổ này, vì chúng ta có quá nhiều bạn hữu để tiếp ứng nhau rồi.

            7.5- Bị khám người, phòng, nhà và bị tịch thu, niêm phong đồ dùng : Bước đàn áp 5 :

            • Phải đòi cho được lệnh chính thức bằng văn bản. Giữ lệnh đó và lưu để khiếu nại về sau.

            • Khám người thì chỉ có CB nữ mới được quyền khám NCSHB nữ.

            • Khám nhà và khám phòng thì phía nạn nhân phải có đủ số nhân chứng ngang bằng với số CB cùng vào phòng / nhà. Nếu CB đông, người nhà chứng nhân cũng phải đông, để một kèm một, không cho CB đánh cắp hoặc bỏ tài liệu xấu vào. (nói cho CB biết nguyên tắc đó).

            • Buộc CB viết biên bản đầy đủ, dù kéo dài bao lâu cũng phải làm.

            • Tố cáo trước công luận quốc tế về các “thủ đoạn phát-xít” này.

            7.6. Bị bắt, tạm giữ, tạm giam : Bước đàn áp 6 :

            • Đến đây NCSHB bị gọi là “Bị can”. Đây là dịp để NCSHB tỏ lộ sĩ khí, anh hùng. Cần bình tĩnh, thản nhiên. Coi chuyện này là bình thường, là bước đường NCSHB đương nhiên phải trải qua. Không thách thức, la lối, mắng chửi hoặc sợ hãi. Các thái độ ấy chỉ gây hại. Không nôn nóng sớm được thả. Không tỏ ra chúng ta cần về (để làm việc). Không tỏ ra ước muốn điều gì tầm thường để khỏi bị bạo quyền dùng điều ấy làm áp lực các vấn đề quan trọng khác.

            • Nên ăn uống bình thường. Nếu cần tuyệt thực, phải tuyệt thực từ 20-30 ngày trở lên (tùy sức khỏe mỗi người). Nên uống một ít nước lạnh mỗi khi thấy đói giữa các bữa cơm thông thường (# 9 h / 15 h / 21 h). Không tuyệt thực lắc nhắc # 3-7 ngày, chỉ làm bạo quyền nhàm lờn. Chỉ ngưng tuyệt thực khi đã đạt mục tiêu đấu tranh nào đó.

            7.7. Bị đánh, tra tấn, nhục hình, mớm cung, ép cung : Bước đàn áp 7 : 

            Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự năm 2003 của CSVN ngăn cấm tất cả các điều này. Nhưng thực tế, hiện nay tại nhiều nhà tạm giữ, trại tạm giam và trại giam ở khắp VN, các CB đang dùng gần 20  kỹ xảo tra tấn cực kỳ dã man, đầy thú tính (có lẽ chỉ có ở TQ và VN), không để lại dấu vết, dù tù nhân có thể chết (sẽ được báo cáo là bị bệnh gì đó), nhất là đối với tù nhân nữ. Khi bị tra tấn và chịu nhục hình NCSHB cần can đảm thẳng thắn phản kháng, tự vệ, nhất là cho CB hành hình biết chúng ta sẽ tố cáo các điều dã man nhơ nhớp này trước công luận quốc tế. (Tìm đọc "Các kỹ xảo CB CSVN tra tấn các tù nhân VN hiện nay").

            7.8. Bị nghe đọc cáo trạng : Bước đàn áp 8 :

            Từ đây NCSHB bị gọi là “bị cáo”. Bịt tai lại không nghe. Đừng bận tâm đến mức án độc đoán với các tội danh xảo trá chỉ có trong các chế độ “phát-xít” : tuyên truyền chống chế độ, chống đối chính sách, phá hoại đoàn kết, gây rối trật tự trị an, lợi dụng dân chủ, lợi dụng tôn giáo,... Hãy tự hào về giá NCSHB phải trả cho Công lý, Tự do Dân chủ của Tổ quốc Dân tộc và tin cậy vào sự can thiệp của Quốc tế.

            7.9. Bị đưa ra Tòa án xử : Bước đàn áp 9 :

            NCSHB phải khước từ luật sư do bạo quyền chỉ định làm trò hề dân chủ trá hình. Nếu có Luật sư chân chính, thì NCSHB cần phối hợp với Luật sư ấy, tận dụng tối đa phiên tòa để trực diện công khai đấu tranh cho Công lý, Sự thật, các Nhân quyền cơ bản, nhất là quyền Tự do Ngôn luận. Nếu tiên liệu không thể biến phiên tòa thành diễn đàn đấu tranh sòng phẳng, thì không nên nhận luật sư và chỉ cần hoàn toàn im lặng trước tòa án trò hề của bạo quyền để nhận chìm xuống bùn nhơ danh dự của nền tư pháp xảo trá của độc đảng. Nếu đọc / ngâm thơ, ca hát buộc bạo quyền bịt miệng, NCSHB lại càng thắng lớn.

            7.10. Bị đưa vào trại giam (trước đây gọi là trại cải tạo) : Bước đàn áp 10 :

            Từ đây NCSHB bị gọi là “bị án” / “phạm nhân”. Hiên ngang vui chịu cảnh tù đày và tự coi mình là tù nhân lương tâm, không chấp nhận bị gọi là phạm nhân, tận dụng cơ hội biến trại giam thành trường đào tạo về Công lý, Dân chủ, Nhân quyền cho các bạn tù, kể cả tù nhân hình sự, vì họ cũng là nạn nhân của một nền chính trị xảo trá - bất công. Hiện nay cơm no, có rau, nước mắm,... Thức ăn gia đình không tiếp tế được thì các bạn tù chia sớt cho nhau không đến nỗi sinh bệnh tật. Đồ ấm gia đình có thể lo được. Không cần mong đợi giảm án. Chắc chắn vì NCSHB không chủ trương và không làm gì bạo động nên không thể bị án quá nặng.

            7.11. Bị viết kiểm điểm, được giảm án, được thả : Bước đàn áp 11 :

            Hiện nay cứ 3 tháng NCSHB bị buộc viết 1 bản kiểm điểm thái độ cải tạo. Điều 2,3,4 về nội quy, đọc sách báo, lao động thì rất dễ viết. Chỉ có điều 1 là rất khó viết : mục đích của tà quyền là bắt chúng ta nhận tội. Nếu không nhận thì bị cùm chân, kiên giam, biệt giam, không cho gặp thân nhân, nhận thư / quà và không thể được thả sớm. Nếu nhận tội thì trái lương tâm và trái sự thật. Vậy tùy loại tội danh mà nên viết thế nào cho ổn thỏa lương tâm.

            Các tội danh như “gián điệp, lật đổ, bạo loạn”,...không thể nhận được. Về một số tội danh khác, dù không hề nhận tội, vẫn có thể khôn khéo viết theo kiểu chơi chữ : “Vì danh dự của Nhà cầm quyền CSVN, tôi chấp nhận thi hành án”. Trước đây, hầu hết các Nhân viên Chế độ Sài Gòn đều viết : “Tôi an tâm cải tạo” (ý nói tôi an tâm tu sửa bản thân, không trốn trại). Tốt nhất là khuớc từ viết kiểm điểm, hiên ngang chỉ nhận mình là tù nhân lương tâm, an tâm ở cho hết án và trông đợi sự can thiệp của Quốc tế. Tuyệt vời hơn, thay vì kiểm điểm bản thân, NCSHB nên tận dụng dịp có được giấy bút này mà kiểm điểm lại bạo quyền CS cho thật chuẩn xác, đanh thép, sắc bén, dù có thể vì đó mà bị gia tăng hình phạt (bị cùm chân, kiên giam, biệt giam,…).

            7.12. Bị ràng buộc sau khi ra khỏi tù : Bước đàn áp 12 :

            Thường khi nhận Giấy Ra Trại không có ràng buộc gì, nhưng khi về trình diện tại địa phương thì rất dễ bị ràng buộc. Vậy, ngay từ đầu, khi về lại đia phương, NCSHB phải biết đề kháng không sợ hãi, không chịu sự ràng buộc phi lý. Và bạo quyền phường, xã không thể đủ bản lãnh để ràng buộc chúng ta, nên lờ đi để chúng ta yên. Ví dụ, quy định phải trình diện hàng tháng, đi ra khỏi xã, phường phải xin phép,... Nếu chúng ta không chấp nhận, thì bạo quyền ấy cũng không áp đặt chúng ta được, đành chỉ biết xí xóa cho qua, để giữ thể diện cho chính họ.

            Chúng ta lại tiếp tục chiến đấu !

            Chúc quý bạn luôn an vui và thành công trong Sự nghiệp đem Công lý, Tự do Dân chủ đến cho Tổ quốc và Đồng bào thân yêu. Mến chào tất cả các CSHB của VN ! @@@

            Tù nhân lương tâm Lm Tađêô Nguyễn Văn Lý - 30.4.2006 –

___________________________________________________________________

 

30.5.2010

ĐƠN KIỆN SỐ 01

của Linh mục tù nhân lương tâm Tađêô Nguyễn Văn Lý

KIỆN NHÀ CẦM QUYỀN CỘNG SẢN VIỆT NAM

về việc Nhà cầm quyền CSVN đã bắt giam giữ trái công luật quốc tế lần thứ 4

từ ngày 18-2-2007 đến thời hạn không rõ ràng

____________________________________________________________________

 

Huế, Việt Nam, ngày 08 tháng 6 năm 2010

           

Kính gửi :             - Tòa án Nhân quyền của Liên hiệp quốc, Thụy Sĩ.

                                          - Các Tổ chức Nhân quyền quốc tế.

            Đồng kính gửi :    - Ông Nguyễn Minh Triết, Chủ tịch Nước CHXHCN Việt Nam.

                                          - Ông Nguyễn Tấn Dũng, Thủ tướng Nước CHXHCN Việt Nam.

            Kính thưa quí Vị,

            Tôi là tù nhân lương tâm Tađêô Nguyễn Văn Lý, Linh mục thuộc Tổng giáo phận Huế, Giáo hội Công giáo Rôma, đang bị quản chế và điều trị bệnh tại Nhà Hưu dưỡng Nhà Chung Tổng Giáo phận Huế, 69 Phan Đình Phùng, Huế, Việt Nam, muốn trình bày với quí vị các khiếu kiện sau đây :

 

I. Tiến trình chịu bất công : 4 lần, 17 năm tù giam và 7 lần, 14 năm quản chế :

            1/- Ngày 18.8.1977 tôi bị NCQ CSVN bắt giam tại trại tạm giam Thừa Phủ, Huế (18.8.1977 - 24.12.1977). Lý do là tôi phổ biến 2 bài phát biểu của Đức cố TGM Philipphê Nguyễn Kim Điền rằng Việt Nam chưa có Tự do Tôn giáo thực sự, trong 2 Hội nghị do chính NCQ CSVN tổ chức năm 1977. Sau đó tôi bị quản chế ở Nhà chung Tổng giáo phận Huế gần 01 năm (1977-1978) và tại giáo xứ Đốc Sơ, Hương Sơ, Huế 2 năm (1981-1983).

            2/- Cuối năm 1983 tôi bị NCQ CSVN kết án 10 năm tù, 3 năm quản chế và bắt giam tại trại tạm giam Thừa Phủ, Huế; 2 trại cải tạo K1, Thanh Cẩm, Thanh Hóa, và K1 Nam Hà, Ba Sao, Kim Bảng, Hà Nam (18.5.1983 - 29.7.1992); cướp đoạt của tôi 4 thùng sách quí, một số máy ghi âm và phát thanh mà không có một biên bản nào. Lý do là ngày 13.8.1981, tôi đã hướng dẫn giáo hữu đứng bên lề đường nguyện kinh 4 lần, khi chúng tôi đi hành hương kính Đức Mẹ La Vang, nhưng bị Công an CSVN ngăn chặn, để khai thông tuyến giao thông cho các giáo hữu hành hương dịp Lễ Đức Mẹ Về Trời 15.8.1981. Sau đó, tôi bị quản chế ở Nhà chung Tổng giáo phận Huế 3 năm (1992-1995) và bị quản chế ở Nhà thờ Nguyệt Biều, Huế hơn 5 năm (1995-2001) vì đã viết bản Tuyên ngôn về thực trạng Giáo hội Công giáo Giáo phận Huế ngày 24.11.1994.

            3/- Cuối năm 2001, tôi bị NCQ CSVN kết án 15 năm tù, 5 năm quản chế và bắt giam trại tạm giam Thừa Phủ, Huế; trại giam K1 Nam Hà, Ba Sao, Kim Bảng, Hà Nam (18.5.2001 -07.2.2005); cướp đoạt của tôi một số sách quí cũng không để lại một biên bản nào. Lý do là từ ngày 12-2-2001 đến ngày 17.5.2001, tôi đã hướng dẫn giáo hữu An Truyền, Phú An, Phú Vang, Thừa Thiên – Huế hiểu biết đôi chút về Tự do Tôn giáo, Tự do Ngôn luận, Tự do Ứng cử - Bầu cử, về Chính trị Công dân (bênh vực công lý, nhân quyền, nhân phẩm) khác với Chính trị Đảng phái (giành quyền quản lý và lãnh đạo Đất nước) như thế nào. Sau đó, tôi bị quản chế ở Nhà chung Tổng giáo phận Huế

 

2 năm (2005-2007) và bị quản chế ở Nhà thờ Bến Củi, Phong Xuân, Phong Điền, Thừa Thiên-Huế hơn 1 tháng (25.2.2007 – 29.3.2007).

            4/- Ngày 30.3.2007, tôi bị NCQ CSVN kết án 8 năm tù, 5 năm quản chế và bắt giam trại tạm giam Thừa Phủ, Huế; trại giam K1 Nam Hà, Ba Sao, Kim Bảng, Hà Nam. (29.3.2007 - 15.3.2010); cướp đoạt của tôi rất nhiều sách báo, tài liệu và máy móc (mà lần này tôi đang đòi lại như sẽ trình bày ở mục III.A.1.a, 1.b, 1.c, 2.a, 2.b, 2.c, 2.d. dưới đây). Lý do là từ ngày 07.02.2005 đến ngày 18.2.2007, tôi đã phổ biến các tài liệu phơi bày sự thật về Ông Hồ Chí Minh và các tài liệu về công lý, dân chủ, nhân quyền; biên soạn và phát hành bán nguyệt san Tự Do Ngôn Luận; đồng thành lập Khối 8406 với Tuyên ngôn Tự do Dân chủ cho Việt Nam ngày 8.4.2006; ủng hộ và giới thiệu đảng Thăng Tiến Việt Nam.

            Vì tôi bị rối loạn huyết áp, dẫn đến tai biến mạch máu não 3 lần (25.5.2009; 12.7.2009; 13.11.2009), lần thứ 3, NCQ CSVN đưa tôi lên Hà Nội cấp cứu và ngày 15.3.2010 tạm đình chỉ thi hành án 12 tháng, đưa tôi về điều trị bệnh liệt nửa người bên phải do tai biến rối loạn huyết áp, tại Nhà hưu dưỡng Nhà Chung Tổng giáo phận Huế, 69 Phan Đình Phùng, Huế, Việt Nam.

            Dưới chế độ CSVN, từ năm 1977 đến nay, tôi đã ở tù 4 lần, 17 năm; bị quản chế 7 lần, 14 năm. Theo pháp luật của NCQ CSVN, tôi vẫn còn phải ở tù 5 năm và bị quản chế thêm 5 năm nữa.

            Sau 3 lần ở tù và 6 lần bị quản chế trước đây, tôi đã phớt lờ các bất công tôi phải gánh chịu, để dành thời giờ cho Sự nghiệp đấu tranh cho công lý, nhân quyền, tự do dân chủ cho Đồng bào Việt Nam. Nhưng lần này, tôi kính nhờ quí vị làm sáng tỏ các bất công tôi phải gánh chịu, để góp phần ngăn chặn NCQ CSVN tiếp tục đàn áp các Chiến sĩ Dân chủ Hòa bình đang trực diện đấu tranh cho Công lý, Sự thật, Tự do, Dân chủ cho toàn Dân tộc Việt Nam.

 

II. Các cơ sở pháp luật để khởi kiện :

A. Căn cứ vào công pháp quốc tế :

1. Công ước Quốc tế về các quyền dân sự và chính trị của Liên hiệp quốc ngày 16.12.1966, Việt Nam xin tham gia ngày 24.9.1982 qui định :

- Điều 19,2 : Mọi người đều có quyền tự do phát biểu quan điểm; quyền này bao gồm quyền tự do tìm kiếm, tiếp nhận, và phổ biến mọi tin tức và ý kiến bằng truyền khẩu, bút tự hay ấn phẩm, dưới hình thức nghệ thuật, hay bằng mọi phương tiện truyền thông khác, không kể biên giới quốc gia.

- Điều 22,1 : Ai cũng có quyền tự do lập hội, kể cả quyền thành lập và gia nhập các nghiệp đoàn để bảo vệ quyền lợi của mình.

2. Tuyên ngôn Quốc tế bảo vệ những người đấu tranh cho nhân quyền ngày 09.12.1998 :

- Điều 5 : Nhằm thăng tiến và bảo vệ quyền con người và các tự do căn bản, mỗi người, tự cá nhân mình hay liên hợp với những người khác, đều có quyền trên bình diện quốc gia hay quốc tế :

a)  Hội họp và tụ họp một cách thuần hòa;

b) Thành lập những tổ chức, những hội đoàn hay những nhóm phi chính phủ, gia nhập và tham dự vào những tổ chức, những hội đoàn, những nhóm phi chính phủ ấy.

- Điều 7 : Mỗi người, tự cá nhân mình hay liên hợp với những người khác, đều có quyền dự kiến những nguyên tắc mới và những ý kiến trong lĩnh vực nhân quyền, thảo luận về nhân quyền và làm thăng tiến sự hiểu biết về nhân quyền.

- Điều 8,1 : Mỗi người, tự cá nhân mình hay liên hợp với những người khác và trên căn bản không phân biệt đối xử, đều có quyền tham gia hữu hiệu vào chính quyền nước họ và vào việc quản lý việc công.

- Điều 8,2 : Nhất là quyền này bao hàm quyền, tự cá nhân mình hay liên hợp với những người khác, đệ trình các cơ quan và các thiết chế quốc gia, cũng như các cơ cấu đảm lãnh việc công, những phê phán và những đề nghị nhằm cải thiện sự tiến hành các cơ quan này và báo hiệu về mọi mặt công tác của họ có nguy cơ gây trở ngại hay ngăn cản sự thăng tiến, bảo vệ và thực hiện nhân quyền cùng các tự do căn bản.

- Điều 12,1 :  Mỗi người, tự cá nhân mình hay liên hợp với những người khác đều có quyền tham gia các hoạt động hòa bình để đấu tranh chống mọi vi phạm nhân quyền và các tự do căn bản.

3. Luật Ký kết, Tham gia và Thực hiện Điều ước Quốc tế, do nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ban hành ngày 24.6.2005, hiệu lực ngày 01.01.2006, qui định tại “Điều 6 điều ước quốc tế và qui định pháp luật trong nước” :

- 6,1 : Trong trường hợp văn bản qui phạm pháp luật trong nước và điều ước quốc tế mà Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có qui định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng qui định của điều ước quốc tế.

- 6,2 : Việc ban hành văn bản qui phạm pháp luật phải bảo đảm không làm cản trở việc thi hành điều ước quốc tế mà Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có qui định về cùng một vấn đề.

Nghĩa là mọi người lương thiện đều hiểu rất rõ về 2 điều luật trên đây rằng : Khi có điều nào trong Luật pháp của một Nước thành viên Liên hiệp quốc khác với hoặc mâu thuẫn với Công ước Quốc tế, thì phải áp dụng Công ước Quốc tế là Văn bản pháp lý có gí trị ràng buộc cao hơn.

B. Căn cứ vào nhân chứng lịch sử :

1. Karl Marx : Cách đây # 170 năm, Ông Karl Marx viết Bộ Tư Bản Luận, Tuyên Ngôn Đảng Cộng Sản tại thủ đô London, đế quốc Anh, không hề bị bắt.

2. Nhóm Nguyễn Ái Quốc : Cách đây # 100 năm, nhóm Nguyễn Ái Quốc gồm nhà yêu nước Phan Chu Trinh, Luật sư Phan Văn Trường, Nguyễn An Ninh, Nguyễn Thế Truyền, Hoàng Quang Giụ, Hoàng Quang Bích, Văn Thu, Nguyễn Như Phong, Nguyễn Văn Tự, Nguyễn Tất Thành viết sách, báo chống lại chế độ thực dân Pháp ngay tại thủ đô Paris, không hề bị bắt.

3. Người Việt làm báo chống Thực dân Pháp ngay tại Việt Nam : Cách đây # 90 năm, cụ Huỳnh Thúc Kháng xuất bản báo “Tiếng Dân” ngay tại Huế năm 1927; Ông Nguyễn An Ninh xuất bản báo La cloche fêlée (Tiếng chuông rè, Tiếng chuông rạn) ở Sài Gòn năm 1923. Cả 2 Ông đều không bị Thực dân Pháp bắt vì dám làm báo chống lại Pháp. Thời đó, riêng tại Nam Kỳ, Việt Nam, các đảng viên cộng sản, nếu đấu tranh bất bạo động, dù công khai, vẫn không bị bắt.

            Cho đến hôm nay, trong cả 4 lần tôi bị bắt, bị kết án, bị nhốt tù 17 năm và trong 7 lần bị quản chế 14 năm, 5 năm tù giam và 5 năm quản chế còn tạm đình chỉ thi hành, tôi đều hoàn toàn vô tội, vì tôi luôn chỉ làm những gì Công luật quốc tế cho phép mà Pháp luật NCQ CSVN phải áp dụng, nếu NCQ CSVN muốn còn là thành viên của Liên hiệp quốc. Trái lại, khi bắt giam, kết tội, quản chế tôi và chiếm đoạt các vật dụng của tôi, chính NCQ CSVN đã ngang nhiên vi phạm nghiêm trọng các Công ước quốc tế mà NCQ CSVN đã xin tham gia, ký kết và hứa sẽ thực hiện, nhưng không hề tuân giữ trong suốt 65 năm qua.

Vì thế, tôi kính nhờ quí vị giúp tôi sao cho thật hiệu quả trong việc đòi buộc NCQ CSVN phải nghiêm túc chấp hành thực hiện :

III. Mục tiêu khởi kiện Nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam :

A. Yêu cầu Nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam trả lại tôi :

1. Tu phục, Chuỗi kinh và kính mắt tôi đang mang trên người :

1.a. Một chiếc áo linh mục đen dài tôi đang mặc : Chiều 29.3.2007, một sĩ quan công an tỉnh Thừa Thiên – Huế đến Phòng Thánh Nhà thờ Bến Củi mời tôi ra trụ sở thôn Bến Củi làm việc, tôi vừa mở cửa phòng tức khắc một lực lượng công an vũ trang hơn 30 người tràn vào phòng tôi, lấy một tấm vải lớn màu xanh da trời trùm tôi lại và ôm tôi nhét vào xe công an như một bao tải, chở ngay về trại tạm giam Thừa Phủ, Huế. Tại đây, họ lột áo linh mục, tước đoạt một tràng chuỗi Mân Côi và một cái kính viễn thị đeo mắt.

1.b. Một tràng chuỗi Mân Côi nói trên tôi dùng để nguyện kinh.

1.c. Một cái kính viễn thị đeo mắt nói trên tôi dùng để đọc sách báo.

2. Các vật dụng tôi đang sử dụng để phục vụ cho Công lý, Nhân quyền :

2.a. 6 máy Personal Computers (Laptops) hiệu HP, TOSHIBA, ACER mà # 20 Công an tỉnh Thừa Thiên – Huế đã cướp đoạt của tôi tại phòng số 5, khu nhà Hưu dưỡng thuộc Nhà Chung Tổng Giáo phận Huế tối 18-2-2007, có Linh mục An-tôn Nguyễn Văn Thăng, Thư ký Tòa TGM Huế chứng kiến và cùng ký tên vào biên bản.

2.b. 6 máy in Laser hiệu CANON trong trường hợp như trên.

2.c. 6 điện thoại di động hiệu NOKIA, SAMSUNG, MOTOROLA và # 120 Simcards trong trường hợp như trên.

2.d. Gần 200 sách, báo, bài viết (mỗi loại hàng chục bản) về Công lý, Nhân quyền, Dân chủ, Tự do, Bầu cử, sự thật về Ông Hồ Chí Minh và về đảng CSVN trong trường hợp nói trên. Khi cướp đoạt và mang đi, các Công an đã đựng số tài liệu này trong 6 thùng giấy lớn.

B. Yêu cầu Nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam phải bồi thường :

1. Các thiệt hại vật chất :

1.a. Tất cả các vật dụng cá nhân của tôi đã nêu ở các tiểu mục 2.a, 2.b, 2.c, 2.d c

Pour être informé des derniers articles, inscrivez vous :
Commenter cet article