LƯU THÁNG 11- 2009 - 5

Publié le par Bienxua

joe-canta.jpg?rnd=1257540505891&rnd=1257

ET SI TU N'EXISTAIS PAS
Joe Dassin
NGHE NHẠC
therosebar.gif?rnd=1257540505891&rnd=125

Et si tu n'existais pas
Dis-moi pourquoi j'existerais?
Pour traîner dans un monde sans toi
Sans espoir et sans regret

Et si tu n'existais pas
J'essayerais d'inventer l'amour
Comme un peintre qui voit sous ses doigts
Naître les couleurs du jour
Et qui n'en revient pas

Et si tu n'existais pas
Dis-moi pour qui j'existerais?
Des passantes endormies dans mes bras
Que je n'aimerais jamais

Et si tu n'existais pas
Je ne serais qu'un point de plus
Dans ce monde qui vient et qui va
Je me sentirais perdu
J'aurais besoin de toi

Et si tu n'existais pas
Dis-moi comment j'existerais?
Je pourrais faire semblant d'être moi
Mais je ne serais pas vrai

Et si tu n'existais pas
Je crois que je l'aurais trouvé
Le secret de la vie, le pourquoi
Simplement pour te créer
Et pour te regarder

Et si tu n'existais pas
Dis-moi pourquoi j'existerais?
Pour traîner dans un monde sans toi
Sans espoir et sans regret

Et si tu n'existais pas
J'essayerais d'inventer l'amour
Comme un peintre qui voit sous ses doigts
Naître les couleurs du jour
Et qui n'en revient pas
o O o

Nếu đời không có em


Hãy nói anh nghe  lý do anh còn sống trên trái đất này là gì ?
Để kéo dài sự sống trong thế giới thiếu vắng em sao ?
Không hi vọng, không nuối tiếc

Nếu đời không có em,
Anh sẽ cố tạo ra tình yêu,
Như người họa sĩ tài ba tạo nên những sắc màu của ánh dương bằng chính đôi tay của mình.
Và rồi tình yêu ấy sẽ không bao giờ quay lại.

Nếu đời không có em,
Hãy nói anh nghe xem anh còn sống trên trái đất này vì ai ?
Chỉ có những mối tình thoáng qua
Anh không thể yêu ai được nữa.

Nếu đời không có em,
Anh sẽ chỉ là một cái chấm nhỏ không hơn trong thế giới đầy biến động này
Anh sẽ cảm thấy rất trống vắng
Anh cần em.

Nếu đời không có em,
Trả lời anh xem anh sẽ phải sống thế nào đây ?
Anh sẽ giả vờ như anh là anh
Dù anh không phải là anh

Nếu đời không có em,
Anh nghĩ là anh sẽ tìm ra được bí mật của cuộc đời
Anh sẽ tìm ra một lý do thật giản dị để tạo ra em, để ngắm nhìn em
449559.jpg?rnd=1226790030572&rnd=1226790 
chiyeu_1nguoi.jpg?rnd=1257894933201&rnd=
NGHE NHẠC
449559.jpg?rnd=1226790030572&rnd=1226790 
113776.gif?rnd=1228109934402&rnd=1257921
CD CHƠI VƠI
Click để nghe tất cả nhạc phẩm trong CD 
449559.jpg?rnd=1226790030572&rnd=1226790 

Thủ tướng Pháp Fillon đến Việt Nam nhằm tìm kiếm lại thị trường

Thanh Phương
Bài đăng ngày 11 tháng mười một năm 2009


Nhà máy điện hạt nhân Tricastin (AFP)


Nhà máy điện hạt nhân Tricastin (AFP)
     Tháp tùng ông Fillon có các Bộ trưởng Giảng dạy đại học và nghiên cứu Valérie Pécresse, Bộ trưởng Ngoại thương Anne-Marie Idrac và Bộ trưởng Giao thông Dominique Bussereau. Tổng cộng 45 chủ doanh nghiệp đi theo thủ tướng Pháp, trong đó có chủ các tập đoàn lớn như Astrium (EADS Espace) và Arianespace France Telecom

Ngày mai, thủ tướng François Fillon cùng với ba bộ trưởng và một phái đoàn doanh nghiệp Pháp sẽ đến thăm Việt Nam. Cụ thể, tháp tùng ông Fillon có các Bộ trưởng Giảng dạy đại học và nghiên cứu Valérie Pécresse, Bộ trưởng Ngoại thương Anne-Marie Idrac và Bộ trưởng Giao thông Dominique Bussereau. Tổng cộng 45 chủ doanh nghiệp đi theo thủ tướng Pháp, trong đó có chủ các tập đoàn lớn như Astrium (EADS Espace) Arianespace và France Telecom.
Theo những người thân cận với thủ tướng Fillon, sẽ có một số hợp đồng được ký kết trong chuyến đi này. Về phần ông Fillon sẽ tắt năm ký hiệp định hợp tác giữa hai chính phủ Pháp Việt, trong đó có hiệp định hợp tác hạt nhân. Việt Nam dự định sẽ xây nhà máy điện hạt nhân đầu tiên và Pháp đang rất muốn tham gia vào việc nghiên cứu khả thi cho dự án này, có thể là ngay từ đầu năm tới.
Theo lời một cố vấn của thủ tướng Fillon, đối với Paris, chuyến đi này là dịp để phát triển quan thương mại với Việt Nam, một trong những quốc gia đang Trỗi dậy và được coi là có nền kinh tế vững chắc cũng mặc dù bị tác động bởi khủng hoảng toàn cầu. Tuy nhiên, các thị phần mà Pháp nắm giữ ở Việt Nam đã giảm xuống qua trong những năm, hiện chỉ còn 1,2%, trong khi Hoa Kỳ đã qua mặt nay, chiếm đến 4,2% thị phần.

Theo chương trình dự kiến, thủ tướng Fillon sẽ đến Hà Nội và sẽ cócác cuộc hội đàm với thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nông Đức Mạnh. Một nguồn tin từ Phủ thủ tướng Pháp cho biết là trong dịp này, ông Fillon cũng sẽ đề cập đến vấn đề nhân quyền, vào lúc mà chính quyền Hà Nội đang siết chặt quyền tự do ngôn luận ở Việt Nam, nhất là trên mạng Internet.

Thứ bảy tới, lãnh đạo chính phủ Pháp sẽ đi thăm Sài Gòn và Huế. Nhân dịp này Thủ tướng Fillon cũng sẽ báo cho vay một khoản viện trợ khẩn cấp cho Việt Nam để giúp khắc phục hậu quả của cơn bão vừa qua
449559.jpg?rnd=1226790030572&rnd=1226790 
Phương Dung:
Những đổi hoa sim

449559.jpg?rnd=1226790030572&rnd=1226790 


(1st Line, L to R): Luxembourg's Prime Minister and President of the Eurogroup Council Jean-Claude Junker, Netherland Prime Minister Jan Peter Balkenende, Chech Prime minister Mirek Topolanek, British Prime Minister Gordon Brown, German Chancellor Angela Merkel, French President Nicolas Sarkozy, Italian Prime Minister Silvio Berlusconi, European Commission President Jose Manuel Barroso and Spanish Prime Minister Jose Luis Rodriguez Zapatero come together for a family photo after a meeting of European Union leaders at the Chancellery on February 22, 2009 in Berlin, Germany. The one-day meeting is taking place ahead of the G20 summit scheduled for April in London, where the leaders of the G20 nations are to discuss common measures on combating the current global economic slowdown and restructuring the world finance system. (Photo by Carsten Koall/Getty Images) *** Local Caption *** Jean-Claude Junker;Jan Peter Balkenende;Mirek Topolanek;Gordon Brown;Angela Merkel;Nicolas Sarkozy;Silvio Berlusconi;Jose Manuel Barroso;Jose Luis Rodriguez Zapatero


Diễn văn của Thủ Tướng Liên Bang Đức
Merkel đọc trước
Lưỡng viện Quốc hội Hoa Kỳ ngày 311.09.

Người dịch : Âu Dương Thệ

  Nữ Thủ tướng Cộng hòa Liên bang Đức, TS Angela Merkel, vừa đọc một diễn văn quan trọng trước Lưỡng viện Quốc hội Hoa kì ngày 3.11.2009. Đây cũng là dịp kỉ niệm 20 năm bức tường Berlin sụp đổ và từ đó đi tới tái thống nhất Đức trong tự do và hòa bình. Quốc hội Mỹ đã dành đặc ân này cho TS Merkel không chỉ vì bà là Thủ tướng nước Đức, một cường quốc kinh tế của EU, mà còn tỏ lòng ngưỡng mộ một phụ nữ xuất thân từ một nước Cộng sản, tức DDR cũ, nhưng đã rất đảm lược vượt qua nhiều thử thách chỉ trong một thời gian tương đối ngắn trở thành một phụ nữ lãnh đạo một nước dân chủ, tự do và phú cường ở Âu châu và một đồng minh quan trọng của Hoa Kỳ.


Thưa bà Chủ tịch,
Thưa Phó Tổng thống,
Thưa Quí vị Đại biểu,


Tôi cám ơn tất cả Quí vị đã dành vinh dự lớn cho tôi được nói chuyện với Quí vị ngày hôm nay, chỉ ít ngày trước dịp kỉ niệm 20 năm sụp đổ của bức tường Berlin.

Tôi là Thủ tướng Đức thứ hai được chia sẻ vinh dự này. Konrad Adenauer [Thủ tướng đầu tiên của Tây Đức, ghi chú của người dịch]*  là người đầu tiên, vào năm 1957 ông đã nói lần lượt ở hai Viện Quốc hội.

Cuộc đời giữa hai người chúng tôi có lẽ không thể khác biệt nhau hơn nữa. Năm 1957 tôi mới chỉ là một đứa trẻ 3 tuổi. Tôi đã sống với cha mẹ ở Brandenburg, một vùng thuộc DDR [tức Cộng hòa Dân chứ Đức theo chế độ Cộng sản, nay là Đông Đức], một phần đất mất tự do ở Đức. Cha tôi hành nghề mục sư. Mẹ tôi đã học Anh ngữ và tiếng Latein để trở thành giáo viên. Nhưng bà đã không được hành nghề ở DDR trước đây.

Konrad Adenauer đã 81 tuổi vào năm 1957. Ông ấy đã trải qua thời Hoàng đế ở Đức, Thế chiến Thứ nhất, Cộng hòa Weimarer [chế độ dân chủ đầu tiên ở Đức từ 1918-1933] và Thế chiến Thứ hai. Ông đã bị mất chức thị trưởng thành phố Köln bởi chế độ Quốc xã. Khi chiến tranh chấm dứt ông đã trở thành một trong số những nam nữ, những người đã khai sáng nước tự do, dân chủ Cộng hòa Liên bang Đức.

Đối với Cộng hòa Liên bang Đức thì không có gì quí bằng bản Hiến pháp của nó, đạo luật căn bản. Nó đã ra đời đúng 60 năm trước đây. Điều 1 của Hiến pháp này ghi rõ: "Nhân phẩm của con người không được xâm phạm". Một câu thật ngắn và đơn giản - "Nhân phẩm của con người không được xâm phạm" - đã là câu trả lời về những thảm họa của Thế chiến Thứ 2. Nó đã giết hại 6 triệu người Do thái trong các lò thiêu, gây ra hận thù, đổ vỡ và tiêu hủy mà Đức quốc đã gây ra cho Âu châu và thế giới.

Chỉ còn vài ngày nữa chúng tôi kỉ niệm ngày 9.11. Vào ngày 9.11. 1989 bức tường Berlin đã sụp đổ, nhưng ngày 9.11. 1938, cũng ghi sâu trong lịch sử Đức và Âu châu. Chính vào ngày này Đức quốc xã  đã phá hủy và đốt cháy các nhà thờ [Do thái] và giết hại rất nhiều người. Đây là khởi đầu mở đường cho thảm họa gẫy đổ văn minh về sau này. Hôm nay tôi không thể đứng trước Quí vị ở đây, nếu không tưởng nhớ tới các nạn nhân trong ngày này và những thảm họa.

Có một vị khách đang cùng với chúng ta ở đây. Chính ông đã phải trải qua những kinh hãi ở nước Đức dưới thời Quốc xã và mới đây tôi đã hân hạnh được quen biết ông: Giáo sư Fritz Stern.  Ông sinh năm 1926 tại một phần đất thời đó thuộc Đức, nay là Breslau của Ba Lan và năm 1938 ông đã kịp thời cùng với gia đình chạy sang Mỹ trốn thoát bọn Quốc xã. Trong cuốn hồi kí của ông xuất bản năm 2006 dưới tựa đề "5 nước Đức tôi đã biết" Fritz Stern đã tường thuật khi đặt chân tới hải cảng New York vào năm 1938, đây cũng chính là hải cảng của tự do và an toàn.

Thưa Quí vị, thật là một kì diệu, lịch sử muốn rằng, chúng tôi - một thiếu niên khi ấy mới 12 tuổi bị xua đuổi khỏi Đức và tôi, nữ Thủ tướng nước Đức vừa tái thống nhất và đã từng lớn lên ở DDR - hôm nay cùng hiện diện trước nơi tôn nghiêm này. Điều này làm tôi rất vui sướng và cám ơn nhiều.

Trước đây 20 năm trước khi bức tường [Berlin] sụp đổ tôi không thể nào mơ tưởng được. Vì ngày đó thật là ngoài sức tưởng tượng của tôi có được một lần sang thăm Hoa kỳ, còn dám nói chi là một ngày nào đó được đứng ở đây.

Một nước với muôn vàn cơ hội - nhưng đối với tôi trong nhiều năm của cuộc đời tôi nó đã trở thành vô vọng. Bức tường, hàng rào kẽm gai, lệnh bắn - những điều này đã ngăn cản bước chân của tôi tới thế giới tự do. Vì thế tôi chỉ còn biết hình ảnh nước Mỹ qua các phim, sách một phần do những người thân đã mang lậu từ phương Tây.

Tôi đã nhìn thấy và đọc gì? Tôi đã hứng thú về những điều gì?

Tôi đã hứng khởi về một giấc mơ Hoa kỳ - cơ hội cho mọi người đạt tới thành công qua những nỗ lực của chính mình.

Tôi cũng như nhiều thiếu nữ khác ao ước những chiếc quần Jeans có tên tốt, nó không có ở DDR, nhưng đã được bà cô của tôi từ phía Tây gởi cho đều đặn.

Tôi đã hứng thú về một nước Mỹ rộng lớn, nó hít thở tinh thần tự do và độc lập. Ngay năm 1990 nhà tôi và tôi lần đầu tiên trong đời đã bay sang Mỹ tại California. Chúng tôi không bao giờ quên lần đầu tiên nhìn thấy Thái bình dương. Nó thật là hùng vĩ.

Đối với tôi cho tới 1989, ước mơ tới Mỹ hầu như không bao giờ đạt tới được. Nhưng ngày 9.11.1989 bức tường Berlin đã sụp đổ. Biên giới từng chia cắt một dân tộc thành hai thế giới từ nhiều thập niên đã không còn nữa.

Chính vì thế ngày hôm nay trước hết phải là lúc để cám ơn.

Tôi cám ơn các phi công Mỹ và đồng minh, những người vào năm 1948 đã đáp ứng lời kêu gọi khẩn thiết của thị trưởng Berlin ông Ernst Reuter; khi ông kêu gọi: "Các dân tộc trên thế giới,…hãy nhìn vào thành phố này…". Ròng rã nhiều tháng các phi công này đã lập cầu không vận chuyên chở lương thực, nên đã cứu Berlin thoát khỏi nạn đói. Nhiều binh lính này đã gặp nguy hiểm và hàng chục người đã bị thiệt mạng.  Chúng tôi vẫn tưởng nhớ chân thành tới họ.

Tôi cám ơn 16 triệu lính Mỹ đã đồn trú tại Đức trong nhiều thập niên. Nếu không có sự đóng góp của họ, trong vai trò binh sĩ, nhà ngoại giao hay là người giúp đỡ thì không thể nào vượt qua sự chia cắt ở Âu châu. Hôm nay cũng như trong tương lai chúng tôi vẫn vui mừng về các binh sĩ Mỹ ở Đức. Họ là những đại sứ cho đất nước của Quí vị tại đất nước chúng tôi, điều này cũng như nhiều người Mỹ gốc Đức cũng là những đại sứ của chúng tôi trên quê hương Quí vị.

Tôi nhớ tới [Tổng thống] John F. Kennedy, trái tim nhiều người đã giành cho ông trong cuộc viếng thăm của ông vào năm 1961 sau khi xây bức tường Berlin. Khi ấy ông đã hô lớn với những người dân Berlin đang tuyệt vọng: "Tôi là một người dân Berlin".

[Tổng thống] Ronald Reagan đã viễn kiến trước nhiều người về những dấu hiệu của thời đại. Khi đứng trước cổng Brandenburg năm 1987 ông đã kêu gọi: "Ông Gorbachew [Chủ tịch nước Liên xô cũ và nguyên Tổng bí thư đảng Cộng sản Liên xô] hãy mở cái cổng này… Ông Gorbachew hãy dẹp bức tường này!".  Những lời kêu gọi này sẽ không bao giờ quên!

Tôi cám ơn [Tổng thống] George Bush [cha của Tổng thống George W. Bush], khi ấy ông đã tin tưởng nước Đức và Thủ tướng Helmut Kohl. Ngay từ tháng 5.1989 ông đã đưa ra đề nghị vô giá với nhân dân Đức là “cùng đồng hành trong lãnh đạo.” Thật là một đề nghị cao quí, 40 năm sau khi chấm dứt Thế chiến Thứ 2. Mới ngày Thứ bẩy vừa qua chúng tôi đã gặp nhau ở Berlin cùng với Michail Gorbachew. Ông cũng nhận được sự cám ơn của chúng tôi.

Thưa Quí vị, cho phép tôi được nói tóm tắt việc này trong một câu: Tôi biết, người Đức chúng tôi biết, chúng tôi cám ơn vô hạn Quí vị, những người bạn Mỹ của chúng tôi. Chúng tôi sẽ không bao giờ và cả cá nhân tôi sẽ không bao giờ quên Quí vị!

Khắp nơi ở Âu châu lòng mong đợi chung về tự do đã biến thành lực lượng không thể tưởng tượng được: Trong Nghiệp đoàn Solidarnosc ở Ba lan, những người đòi cải tổ qui tụ quanh Vaclav Havel [Thổng thống đầu tiên sau khi Tiệp khắc thoát khỏi chế độ Cộng sản] ở Tiệp khắc, việc mở cửa bức màn sắt lần đầu tiên ở Hung và những cuộc biểu tình vào ngày Thứ hai mỗi tuần ở DDR cũ.

Vì nơi nào trước đây có những bức tường đen tối thì nơi đó cửa được mở bất thình lình. Chúng tôi xuống đường, vào các thánh đường, vượt qua các biên giới. Mỗi người có được cơ hội bắt đầu xây dựng một cái gì mới, cùng nhau kiến tạo và dám mạnh dạn lên đường.

Chính tôi cũng đã lên đường. Tôi đã bỏ lại công việc là nhà vật lí tại Viện Khoa học ở Đông Berlin và tham gia hoạt động chính trị. Vì tôi đã có thể tổ chức. Vì tôi đã có cảm tưởng: Bây giờ sự việc có thể thay đổi được, bây giờ là lúc mình có thể làm một cái gì!

Thưa Quí vị, 20 năm từ khi phần thưởng vĩ đại của tự do đã đi qua. Tuy nhiên, cho tới bây giờ chưa có gì làm tôi sung sướng, chưa có gì làm tôi khích lệ, chưa có gì làm tôi hài lòng hơn là sức mạnh của tự do.

Ai đã từng trong đời bất ngờ trải qua một việc tốt thì người đó tin rằng có thể còn làm được nhiều việc khác nữa. Hay có thể dùng câu của [Tổng thống] Bill Clinton nói năm 1994 ở Berlin về việc này: "Không có gì cản trở được chúng ta. Mọi chuyện đều có thể xẩy ra."

Vâng, mọi chuyện đều có thể xẩy ra - một phụ nữ như tôi hôm nay có thể đứng cạnh Quí vị ở đây, một người đàn ông như Arnold Vaatz trước đây dưới thời DDR từng là người tranh đấu dân quyền ở Dresden [một thành phố lớn ở DDR] và vì vậy đã có một thời kì phải ngồi tù, nay đang là một dân biểu của Quốc hội Liên bang Đức trong phái đoàn của tôi cũng đang ở đây.

Mọi chuyện đều có thể xẩy ra, cả trong thế kỉ của chúng ta, trong Thế kỉ 21, trong kỉ nguyên toàn cầu hóa. Chúng ta biết rằng, ở Đức chúng tôi cũng như ở Hoa kì của quí vị, toàn cầu hóa đang làm nhiều người lo ngại. Chúng ta không đơn giản bỏ qua điều này. Chúng ta nhìn nhận những khó khăn. Nhưng bổn phận của chúng ta là thuyết phục mọi người hiểu rằng, toàn cầu hóa là một cơ hội lớn của thế giới, cho từng lục địa, vì toàn cầu hóa thúc đẩy mọi nơi phải hành động chung với nhau.

Như thế phải chăng giải pháp thay thế cho toàn cầu hóa là đóng cửa. Nhưng đấy không phải là giải pháp đúng. Nó sẽ dẫn tới đói nghèo, vì nó đưa tới cô lập. Tư duy trong liên kết, tư duy trong hợp tác - nó dẫn tới một tương lai tốt.

Thưa Quí vị, Hoa kỳ và Âu châu không phải lúc nào cũng có tư tưởng đồng nhất. Có khi bên này nghĩ là bên kia quá lưỡng lự, quá lo sợ và ngược lại, bên kia lại nghĩ là bên này bướng bỉnh và quá thôi thúc. Mặc dầu vậy, nhưng tôi vẫn tin tưởng sâu sắc rằng: Một bạn đồng hành tốt hơn Mỹ không thể có cho Âu châu, đối với Hoa Kỳ cũng không thể có một bạn đồng hành tốt hơn là Âu châu.

Vì rằng, những gì dẫn dắt và ràng buộc giữa người Âu châu và Hoa Kỳ với nhau không chỉ là có chung một lịch sử. Những gì dẫn đắt và ràng buộc giữa người Âu châu và Hoa Kỳ với nhau không chỉ là vì cùng quyền lợi và cùng những thách đố, như thường có ở nhiều khu vực trên thế giới. Nếu chỉ những việc đó riêng thôi thì không đủ để xây dựng và gánh vác lâu dài cho mối đồng hành đặc biệt giữa Âu châu và Hoa Kỳ. Phải có gì sâu xa hơn.

Những gì dẫn dắt và ràng buộc giữa người Âu châu và Hoa Kỳ chính là có cùng căn bản giá trị giống nhau. Đó là biểu tượng chung về con người và nhân phẩm vô giá. Đó là sự hiểu biết giống nhau về tự do trong trách nhiệm. Chúng ta đã bênh vực những giá trị này trong tinh thần thân hữu liên Đại tây dương rất đặc biệt và trong giá trị chung của NATO [Liên phòng Bắc Đại tây dương]. Từ đó đã làm cho “cùng đồng hành trong lãnh đạo” được thực hiện, thưa Quí vị. Chính căn bản giá trị này đã chấm dứt được cuộc chiến tranh lạnh. Chính căn bản giá trị này có thể giúp chúng ta vượt qua những thử thách của thời đại hiện nay và chúng ta phải thành công!

Nước Đức đã thống nhất, Âu châu đã thống nhất. Những việc này chúng ta đã hoàn thành. Ngày nay thế hệ chính trị của chúng ta phải chứng tỏ rằng, chúng ta phải thành công đối với những thách đố của Thế kỉ 21 và có thể phá vỡ những bức tường ngày hôm nay hiểu theo một nghĩa bóng.

Đó là những điều gì? Một là kiến tạo hòa bình và an ninh. Hai là đạt tới hạnh phúc và công bằng và ba là bảo vệ trái đất của chúng ta. Trong các vấn đề này cả Mỹ lẫn Âu châu lại bị thôi thúc đặc biệt.

Cả sau khi Chiến tranh lạnh chấm dứt cũng vẫn còn vấn đề là phá vỡ những bức tường liên quan tới những quan điểm về cuộc sống, như những bức tường trong đầu mỗi người. Những bức tường này đang ngăn cản chúng ta, hoặc gây khó khăn để chúng ta hiểu nhau trên thế giới. Muốn vậy thì tinh thần khoan dung rất quan trọng. Đối với chúng ta thì phương cách sống của chúng ta là điều quan trọng nhất. Nhưng nó không phải là phương cách sống cho tất cả mọi người. Có nhiều giải pháp khác nhau để làm cho một cuộc sống chung tốt đẹp. Khoan dung là sự biểu lộ lòng kính trọng lịch sử, truyền thống, tôn giáo và nguồn gốc của những người khác.

Nhưng đừng có ai nhầm lẫn: Khoan dung không có nghĩa là thế nào cũng được. Không khoan dung với những ai không tôn trọng và chà đạp các quyền vô giá của con người. Không khoan dung với những ai, nếu võ khí giết người hàng loạt thí dụ như rơi vào tay Iran có thể đe dọa an ninh chúng ta. Iran phải biết điều này. Iran biết các đề nghị của chúng ta. Nhưng Iran cũng biết gianh giới: Một trái bom nguyên tử không được phép có trong tay của Tổng thống Iran, người từng phủ nhận Holocaut, đe dạo Do thái và không nhìn nhận quyền tồn tại [của Do thái].

Đối với tôi, nền an ninh của Do thái không bao giờ có thể thương lượng được. Chẳng những thế, không chỉ riêng Do thái bị đe dọa, mà là toàn thể thế giới tự do. Ai đe dọa Do thái cũng là đe dọa chúng ta. Vì vậy, thế giới tự do chống lại sự đe dọa này, nếu cần thì trừng phạt kinh tế nghiêm khắc. Thưa Quí vị, chính vì thế nước Đức chúng tôi ủng hộ mạnh mẽ tiến trình hòa bình ở Trung - Đông để thực hiện giải pháp hai quốc gia: một nước Do thái và một nước Palestin.

 Chúng tôi cũng chống lại những đe dọa của khủng bố quốc tế. Chúng ta biết rằng, không có một nước nào - dù mạnh tới đâu - có thể đương đầu một mình. Chúng ta cần các đối tác. Chỉ trong sự hợp tác với các đối tác thì chúng ta mới mạnh.

 Vì sau những cuộc khủng bố ngày 11.9 [2001] chúng tôi đã chia sẻ với quan điểm của Tổng thống George W. Bush khi ấy là, từ nay trở đi an ninh của thế giới không được phép bị đe dọa từ A phú hãn, cho nên từ năm 2002 Đức đã có một đoàn quân lớn thứ ba đóng tại đó. Chúng tôi muốn thực hiện thành công giải pháp được gọi là an ninh liên kết. Nghĩa là: Sự tham gia cả dân sự lẫn quân sự liên đới mật thiết với nhau.

Rất là rõ ràng: Sự dấn thân của nhiều nước ở A phú hãn là rất khó nhọc. Nó đòi hỏi chúng ta rất nhiều. Nó phải tiến tới một giai đoạn mới khi chính phủ mới ở A phú hãn nhậm chức. Mục tiêu phải là phát triển một chiến lược chuyển giao trách nhiệm. Chúng ta muốn triển khai việc này vào đầu năm tới tại Hội nghị của Liên hiệp quốc. Chúng ta sẽ thành công, nếu chúng ta cùng nhau đi từng bước tiếp tục trong liên minh như hiện nay. Đức tự ý thức trách nhiệm này.

Không có gì nghi ngờ: NATO đã và tiếp tục là cột trụ cho an ninh chung của chúng ta. Kế hoạch an ninh của nó được tiếp tục phát triển và thích ứng với những thử thách mới. Nền tảng và hướng đi của nó phục vụ hòa bình và tự do hoàn toàn không thay đổi.

Những người Âu châu chúng tôi - tôi tin tưởng như thế - có thể đóng góp cho việc này nhiều hơn nữa trong tương lai.  Vì người Âu châu chúng tôi trong tuần này sẽ hoàn thành cho Liên minh Âu châu một hiệp ước căn bản mới. Chữ kí cuối cùng cho việc này đã được kí. Nhờ thế Liên minh Âu châu sẽ mạnh hơn và hành động hiệu quả hơn và như vậy Hoa Kỳ sẽ có một người đồng hành mạnh hơn và tin cậy hơn.

Trên căn bản này chúng ta sẽ thiết lập sự hợp tác chặt chẽ với các đối tác khác, trước hết với Nga, Trung Quốc và Ấn. Thưa Quí vị, vì ngày nay chúng ta đang sống trong một thế giới tự do hơn và ràng buộc với nhau hơn trước đây. Sự sụp đổ của bức tường Berlin, cuộc cách mạng kĩ thuật trong thông tin và truyền thông, sự vươn lên của Trung Quốc, Ấn và nhiều nước khác trở thành các nền kinh tế năng động - tất cả những việc này đang biến đổi thế giới trong Thế kỉ 21 thành một thế giới khác so với Thế kỉ 20. Đây là một điều tốt. Vì tự do là qui luật của cuộc sống trong kinh tế và xã hội chúng ta. Chỉ có trong tự do con người mới có sáng tạo.

Nhưng một điều cũng rõ rệt: Tự do này không đứng riêng rẽ.  Đây là một tự do trong và hướng tới trách nhiệm. Cho nên cần phải có trật tự. Việc gần như gẫy đổ của thị trường tài chánh quốc tế đã cho thấy, điều gì sẽ xẩy ra nếu không có một trật tự này.

Nếu thế giới đã học một bài học từ cuộc khủng hoảng tài chánh của năm ngoái thì không thể bỏ qua được nhận thức là, một nền kinh tế toàn cầu hóa cần một khuôn khổ trật tự toàn cầu. Không có một ràng buộc trên bình diện thế giới dựa trên minh bạch và kiểm soát thì không thể bồi đắp được tự do, khi ấy sẽ dẫn tới lợi dụng tự do và từ đó đưa tới bất ổn định. Đó như một bức tường thứ hai, nó phải sụp đổ - một bức tường đang cản trở một trật tự kinh tế toàn cầu thực sự, một bức tường của các tư duy thiển cận khu vực và dân tộc hẹp hòi.

Chìa khóa trong sự hợp tác giữa các nước công nghiệp và các nước đang vươn lên nằm ở trong nhóm G 20 [20 nước công nghiệp và đang vươn lên tiêu biểu trên thế giới và gần đây đã có các Hội nghị cấp cao để giải quyết cuộc khủng hoảng tài chính-kinh tế toàn cầu]. Cũng tại đây sự hợp tác giữa Mỹ và Âu châu là một trụ cột quyết định. Đây là một sự hợp tác trong đó không loại trừ ai, nhưng nó kết hợp cả những nước khác.

Nhóm G 20 đã cho thấy, nó có khả năng hành động. Chúng ta phải chống lại các áp lực đã đưa nhiều nước trên thế giới sát bên bờ vực thẳm. Điều này không có gì khác, đấy chính là phải được thúc đẩy tiếp tục đường lối kinh tế quốc tế mạnh hơn nữa. Vì cuộc khủng hoảng đã cho thấy những suy nghĩ rất thiển cận. Hàng triệu người trên thế giới qua đó sẽ thất nghiệp và nghèo đói sẽ đe dọa. Để đạt tới hạnh phúc và công bằng, chúng ta phải làm tất cả để tránh một cuộc khủng hoảng tương tự không thể diễn ra, thưa Quí vị.

Điều này còn có nghĩa là, chống các chủ trương bảo hộ. Vì thế các cuộc đàm phán - Doha trong khuôn khổ của Tổ chức Thương mại Quốc tế [WTO] rất quan trọng. Một sự thành công của vòng đàm phán -Doha giữa lúc đang có cuộc khủng hoảng sẽ là một tín hiệu rất tốt cho việc thông thoáng kinh tế thế giới.

Tương tự vậy, Hội đồng kinh tế liên Đại tây dương cũng có một vai trò quan trọng. Chúng ta có thể ngăn cản các cuộc chạy đua bảo hộ và có thể đưa ra những biện pháp nhằm giảm các cản trở mậu dịch giữa Âu châu và Mỹ. Tôi yêu cầu Quí vị: Quí vị hãy để chúng ta cùng đấu tranh cho một trật tự kinh tế thế giới, việc này nằm trong lợi ích của Âu châu và Hoa Kỳ!

Thưa Quí vị, những thách đố toàn cầu chỉ có thể vượt qua được trong sự hợp tác quốc tế toàn diện, nó đang xuất hiện như một thử thách thứ ba của Thế kỉ 21. Trong đó có thể hình dung như một bức tường giữa hiện tại và tương lai. Bức tường này đang ngăn cản tầm nhìn về những nhu cầu của các thế hệ tiếp theo. Nó cản trở những sự bảo vệ rất cần thiết cho nền tảng đời sống tự nhiên và khí hậu của chúng ta.

Những sự tiêu phí này sẽ dẫn tương lai chúng ta về đâu, điều này chúng ta có thể thấy được ngay lúc này: Ở khu Arktis [Bắc cực] các băng đá đang tan, ở Phi châu con người đang phải chạy trốn vì môi trường của họ bị tàn phá, mực nước biển đang dâng cao ở khắp nơi trên thế giới. Tôi rất vui mừng là Tổng thống Obama và Quí vị đã đề cao việc bảo vệ khí hậu trong các hoạt động của Quí vị. Tất cả chúng ta đều biết: Chúng ta không còn nhiều thời gian. Chúng ta cần đạt tới thống nhất trong Hội nghị Khí hậu vào tháng 12 ở Kopenhagen [thủ đô Đa mạch]. Chúng ta cần thống nhất trong mục tiêu: Sự hâm nóng toàn cầu không được phép vượt quá 2° C.

Trong đó chúng ta cần sự sẵn sàng của các nước thực hiện nghiêm chỉnh các thỏa thuận quốc tế. Trong việc bảo vệ khí hậu, chúng ta không thể làm khác các mục tiêu khoa học đã cho biết. Khi ấy không chỉ vô trách nhiệm về môi trường. Nó còn là thiển cận trong  kĩ thuật. Vì những phát triển của kĩ thuật mới trong lãnh vực nhiên liệu tạo ra những cơ hội lớn cho tăng trưởng và những chỗ làm tương lai.

Không có gì phải nghi ngờ: Trong tháng 12 thế giới đang chăm chú vào chúng ta, vào Âu châu và Hoa Kỳ. Đây là một sự thật: Nếu không có sự tham gia của Trung quốc và Ấn thì công việc sẽ không chạy. Nhưng tôi tin rằng: Nếu chúng ta ở Âu châu và Hoa kì sẵn sàng đảm nhận nghiêm túc các thỏa thuận, thì chúng ta sẽ thuyết phục được Trung quốc và Ấn. Khi đó ở Kopenhagen chúng ta có thể vượt qua bức tường đang tồn tại giữa hiện tại và tương lai - trong lợi ích con cháu của chúng ta và trong lợi ích của một cuộc phát triển vững vàng trên toàn cầu.

Thưa Quí vị, tôi tin rằng: Như chúng ta trong thế kỉ 20 đã từng có sức mạnh làm đổ bức tường từ hàng rào kẽm gai và bê-tông, thì ngày nay chúng ta cũng có sức mạnh vượt qua được những bức tường của Thế kỉ 21 - Các bức tường trong các đầu của chúng ta, các bức tường trong tính toán quyền lợi riêng thiển cận, các bức tường giữa hiện tại và tương lai!

Thưa Quí vị, niềm tin của tôi bắt nguồn từ một âm thanh đặc biệt - âm thanh của cái Chuông Tự do trong tòa thị chính ở Schöneberg của Berlin. Ở đó từ năm 1950 treo một cái chuông phỏng theo Chuông Tự do của Mĩ. Nó do công dân Hoa kì tặng và nó là dấu hiệu của lời hứa tự do, nó đã trở thành sự thực. Ngày 3.10.1990 Chuông Tự do đã vang lên khi nước Đức tái thống nhất. Ngày 13.9.2001 nó lại vang lên một lần nữa, chỉ hai ngày sau 11.9 - chính là lúc nỗi đau buồn lớn nhất của dân tộc Hoa kì!

Chuông Tự do ở Berlin cũng giống Chuông Tự do ở Philadelphia, một biểu tượng nhắc nhở chúng ta là, tự do không tới tự nó. Nó phải được đấu tranh và phải được bảo vệ hàng ngày trong cuộc sống của chúng ta.  Trong cố gắng này, Đức và Âu châu trong tương lai vẫn là những bạn đồng hành mạnh và đáng tin cậy của Hoa Kỳ. Tôi bảo đảm với Quí vị như vậy!

Chân thành cám ơn Quí vị.


Bài do người dịch gửi đăng.

*Các phần trong […] là ghi chú của người dịch.
449559.jpg?rnd=1230721996117&rnd=1230721
  Nước Pháp bắt đầu chiến dịch chích ngừa cúm A , chỉ có 20% dân chúng ủng hộ tiêm phòng 

Ánh Nguyệt

Bài đăng ngày 11 tháng 12 năm 2009

Bộ trưởng Y tế Pháp Roselyne Bachelot (Reuters)

Bộ trưởng Y tế Pháp Roselyne Bachelot (Reuters)


Chiến dịch chích ngừa cúm A H1N1 được khởi động tại 1,060 địa điểm trên toàn nước Pháp hôm nay, miễn phí và tự nguyện nhưng đang gặp phải sự dè dat của dân chúng.

Trên nguyên tắc, khoảng 6 triệu đối tượng ưu tiên phải nhận được phiếu đi chích ngừa sáng nay. Đó là thân nhân trẻ sơ sinh, các nhân viên y tế, những người dễ bị biến chứng nào đã có bệnh kinh niên.

Theo hãng tin AFP, các trung tâm chích ngừa mở cửa từ 8 giờ rưỡi sáng, giờ địa phương, nhưng tại nhiều nơi, chẳng hạn như tại các thành phố Marseille, Bordeaux, con số người đi chủng ngừa đếm được trên đầu ngón tay .

Bộ trưởng Y tế, bà Roselyne Bachelot tuy không thuộc diện ưu tiên nhưng đã có mặt chích ngừa tại một trung tâm ở Paris để khuyến khích và kêu gọi mọi người cùng tham gia chiến dịch.

Mặc dù chiến dịch chích ngừa cúm A được quảng bá rộng rải từ nhiều ngày qua trên các phương tiện truyền thông, nhưng đa số dân Pháp vẫn còn nghi ngại về tác dụng của thuốc. Theo các cuộc thăm dò chỉ só 20% dân chúng sẵn sàng hưởng ứng lời kêu gọi đi chích ngừa


8493-002-13-1028.gif?rnd=1258104215452

Nước Mỹ là một quốc gia mới được thành lập bởi những di dân từ khắp nơi trên thế giới tới, nên ngày lễ Tạ Ơn (ThanksGiving),26 tháng 11 là Lễ của di dân mang một tính chất trang trọng, nó gợi lại cho tất cả mọi di dân một tâm trạng hết sức đặc biệt, một phần nhớ lại nguồn gốc tổ tiên của mình, một phần nhớ lại sự khó khăn của những ngày đầu tiên trên mãnh đất mới này
Và nhớ lại những ân sũng đã được Thượng Đế đã ban cho từ trước tới nay
 Lễ Tạ Ơn không phải là ngày lễ riêng biệt của một tôn giáo nào, nó cũng không có tính chất chính trị để tưởng niệm một cá nhân, một biến cố lịch sử của dân tộc nào, vì những lý do đó chúng ta nên tìm hiểu sự tích của ngày lễ này chung cho tất cả mọi di dân.
  Ngày lễ Tạ Ơn đầu tiên trong lịch sử nước Mỹ đã được cử hành vào tháng chạp năm 1621 khi nhóm di dân Pilgrims từ con tàu Mayflower.
      Sau khi đặt chân lên vùng đất thuộc tiểu bang Massachusett đã xây dựng thành công cộng đồng Plymouth của họ.
Sau một năm tranh đấu gian khổ với thiên nhiên, sau khi hơn nửa dân số đã chết vì bệnh tật và đói khát, họ đã tồn tại một phần là nhờ sự giúp đở của thổ dân da đỏ cung cấp lương thực và dạy họ trồng bắp và săn thú rừng.
  Các di dân đó đã làm lễ Tạ Ơn Thượng Đế đã ban cho họ một mùa gặt hái thành công khiến họ và con cái họ có thể tồn tại được trên vùng đất mới này, và từ đó sinh sôi nẩy nở phát triển cho đến ngày nay.
  Lễ Tạ Ơn đã được cử hành trên khắp nước Mỹ, nhưng mỗi nơi cử hành theo phong tục tập quán riêng biệt của các dân tộc ,đem theo từ cựu lục địa Âu, Á không vào một ngày nào nhất định, và hình thức cũng khác nhau tuỳ theo dân tộc tính của mỗi nơi.
Nhưng khi các di dân Mỹ bắt đầu phát động cuộc chiến cách mạng để giải phóng dân tộc khỏi sự đô hộ của đế quốc Anh, thì tính chất đặc thù dân tộc của ngày lễ Tạ Ơn bắt đầu được xác định.
  Tướng Washington sau khi thoát khỏi cuộc bao vây ở Valley Forts đã ban hành luật dựng nên ngày lễ Tạ Ơn Thượng Đế đã cứu thoát quân giải phóng vào ngày 26 tháng 11 năm 1789.
    Mục đích là để tạo nên tinh thần đoàn kết giữa tất cả những di dân chống lại ngoại xâm.
Đến năm 1830 khi tình hình chia rẽ dân tộc bắt đầu khơi mào thì các tiểu bang miền Bắc tuyên cáo thành lập ngày lễ Tạ Ơn để giử vững nền móng Quốc Gia và sau đó bà Sarah Hale là người có công đi cổ động trên khắp nước Mỹ để có được một ngày lễ Tạ Ơn đồng nhất cho tất cả các tiểu bang.
    Đến khi cuộc chiến Nam Bắc nước Mỹ đang ở vào thời kỳ ác liệt nhất, các tiểu bang miền Nam đòi ly khai thì Tổng thống Lincoln nhận thấy rằng cần phải tìm ra một phương thức nào đó để xây dựng sự đoàn kết dân tộc,
Và ông đã nhận ra được tầm mức quan trọng của ngày lễ Tạ Ơn, ngày tưởng niệm các di dân
 Ông muốn nhắc đến công ơn của các di dân đầu tiên đã xây dựng nên nước Mỹ. Để cố hoà giải sự chia rẽ Bắc Nam thời đó, ông tuyên bố chọn ngày thứ Năm cuối cùng của tháng 11 năm 1863 làm ngày lễ Tạ Ơn.
Đến năm 1941 thì Quốc Hội Mỹ đang trong thời kỳ đệ nhị thế chiến, đã biểu quyết ngày lễ Tạ Ơn là ngày quốc lễ của toàn thể liên bang.
  Mỗi khi vận mệnh đất nước bị lâm nguy là người dân Mỹ cảm thấy cần đến ngày lễ Tạ Ơn hơn lúc nào hết, để tưởng nhớ đến sự hy sinh, những khó khăn mà tiền nhân đã trải qua và cùng nhau sát cánh để đối đầu với những khó khăn hiện tại.
  Sau bao nhiêu thay đổi, ngày lễ Tạ Ơn ngày nay đã trở thành một ngày lễ được người Mỹ tôn trọng nhiều nhất, bất kể tôn giáo, nguồn gốc dân tộc.
Người Mỹ thường hội họp gia đình vào ngày lễ Tạ Ơn sau khi đi lễ ở nhà thờ thì họ họp nhau lại ăn một bửa cơm trưa rất lớn gồm có gà tây, mứt, cranberries, bánh bí đao, bắp và nhiều loại rau trái.
Những món này là những món ăn thuần tuý của vùng New England, cái nôi văn hoá của nước Mỹ.
***
Quyền lực và tri thức

Tiến sĩ Hoàng Kim Phúc  - Đại học Oxford, Anh Quốc


Được biết Hội nghị người Việt Nam ở nước ngoài lần thứ nhất sắp diễn ra từ ngày 21-23/11.

091110145446_saigon226.jpg?rnd=125810421 

Việt Nam kêu gọi người Việt ở nước ngoài về giúp xây dựng đất nước

Chủ đề cuộc gặp, theo ban tổ chức, là “Vì một cộng đồng đoàn kết vững mạnh, góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng đất nước”.

Tiêu chí thì hay, nhưng không hề mới đã làm nảy sinh câu hỏi là sao vấn đề hay như vậy mà qua hằng chục năm vẫn không tiến bộ khả quan? Thiết nghĩ trong một cái nhìn dài hơi, thì sự đóng góp của kiều bào quan trọng nhất là chuyển tải thông tin và tri thức tiên tiến về nước, đặc biệt khi kiều hối cùng những quan hệ trực hệ theo thời gian mà ít dần đi.

Suy tính về phương pháp và hiệu quả chuyển giao tri thức, chắc chắn không thể bỏ qua thực tế sử dụng trí thức trong nước. Người viết muốn hình dung những rào cản với trí thức Việt kiều, thông qua việc khảo sát giới trí thức Việt Nam.

Trí thức Việt Nam - cắt một lát!

Thôi thì ta tạm gọi những người được đào tạo có trình độ đại học trở lên ở Việt Nam là trí thức, mặc dù GS Phan Đình Diệu đã từng cho rằng Việt Nam chưa có đội ngũ trí thức theo đúng nghĩa.

Tìm đọc lại lớp trí thức Tây học tiêu biểu như Nguyễn Mạnh Tường, Trần Đức Thảo, Nguỵ Như Công Tum…có vẻ các cụ chỉ được chính quyền sử dụng như những “lá bài” chính trị hơn là tạo điều kiện để tri thức của các cụ tỏa sáng, truyền bá tới các tầng lớp nhân dân và hậu thế.

Nhắc lại như vậy để thấy, loại trí thức cây Đa, cây Gạo ở Việt Nam hầu hết là bắt nguồn đào tạo từ “lò” Liên Xô, Đông Đức, Trung Quốc và các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa (XHCN) cũ. Riêng Liên Xô (cũ) cho tới lúc rã đám (1990) đã đào tạo cho Việt nam 52.000 đại học, sau đại học và khoảng 100.000 công nhân kỹ thuật. Trong suốt chiều lịch sử của chiến tranh lạnh, do lằn phân chia ý thức hệ, “kênh” thông thương của trí thức Việt nam với thế giới cơ bản là các nước XHCN.

Khối XHCN Đông Âu sập đổ, giới trí thức Việt Nam mất đi chỗ dựa tinh thần và hệ thống chính trị thì mất điểm tựa về ý thức hệ. Trí thức Việt Nam đồng thời mất cơ hội đào tạo cơ bản và nâng cao trình độ, nhưng nghiêm trọng nhất là mất đi “chiếc cầu trung gian” để giúp họ mường tượng ra thế giới bên ngoài đã biến đổi sang nền kinh tế tri thức như thế nào, dù rằng trình độ của các nước Đông Âu lúc ấy còn đi sau các nước Tây Âu hàng chục năm.

Mô hình công nghiệp ở những năm cuối thập kỷ 80 tại Liên xô và Đông Âu là những công xưởng “đại tướng” nhưng lãng phí tài nguyên, năng lượng và ô nhiễm. Nền công nghiệp hóa được vẽ ra bởi đội ngũ trí thức lãnh đạo Việt nam cho tương lai 2020, có dáng dấp của “thời đại công nghiệp” này vay mượn cách tổ chức của các tập đoàn công nghiệp Hàn Quốc.

Trong các quốc gia phát triển, giới trí thức thường đi đầu trong các trào lưu tư tưởng và sáng tạo, làm lực lượng tiên phong đưa cả xã hội đi lên. Có thể gọi đó là tính tiên phong và “lãng mạn” mà xã hội đòi hỏi ở đội ngũ này.

Thiếu niềm tin vào năng lực tri thức cùng thứ văn hóa Khổng nho, gia trưởng được xây trên nền tảng nhất nguyên ý thức hệ, đã đẩy lớp người đang nắm quyền lực tới trạng thái tâm lí duy lợi.

Hoàng Kim Phúc

Sức mạnh của trí thức phụ thuộc vào chất lượng đào tạo, trình độ cập nhật thông tin và điều kiện tự do tư tưởng. Thiếu một trong ba yếu tố trên, giới trí thức không thể phát triển được. Cả ba điều trên đều là những thứ còn thiếu vắng trong xã hội Việt nam hiện nay.

Trong cả một thập kỷ 90 biến động và “cô lập”, giới khoa bảng Việt Nam xào xáo lại những kiến thức cũ, quay lại đào tạo lẫn nhau theo những quy chuẩn tự họ đặt ra. Đa phần những “tri thức” này giúp họ hợp thức hoá bằng cấp để giành chỗ trong hệ thống chính trị nhưng nó còn ít giá trị phục vụ xã hội vì đã lỗi thời. Lớp cán bộ này hiện nay đang nắm hầu hết các vị trí quan yếu của đất nước.

Nền tảng tri thức như vậy dĩ nhiên dẫn tới sự mất niềm tin vào khả năng tự tác nghiệp khi cọ sát với sự phát triển khoa học, công nghệ chóng mặt ở thế giới.

Thiếu niềm tin vào năng lực tri thức cùng thứ văn hóa Khổng nho, gia trưởng được xây trên nền tảng nhất nguyên ý thức hệ được tuyên huấn ngay từ thơ ấu đã đẩy lớp người đang nắm quyền lực trong các sở, vụ, viện, bộ, trung ương … tới một trạng thái tâm lí duy lợi, và giữ quyền lực bằng mọi giá. Tâm tư phổ biến của lớp cán bộ này là nhìn sự nhũng lạm quyền lực với con mắt vừa căm ghét, vừa thèm khát nhưng cũng đầy sợ sệt. Thực trạng mua quan bán tước rộng khắp từ thấp tới cao là một hệ quả nhỡn tiền.

Mọi thứ lý tưởng hoa mỹ sau “sụp đổ Đông âu” chỉ còn là màn trình diễn nhằm biện bạch cho tính chính thống hay tính tiên phong mà thực ra họ đã không còn thủ đắc nữa.

Phía bên kia

Trong những năm tháng đó, ở phía bên kia của lát cắt có một thành phần mới khác đang lớn lên. Dẫn đầu họ là những trí thức xuất sắc do may mắn nào đó “sống sót” sau những cơn “lũ quét” hồng hơn chuyên như Hoàng Tụy, Lê Đăng Doanh, Nguyễn Quang A…

Lớp trẻ hơn nằm trong nhóm người may mắn tìm được cơ hội đào tạo từ ở những nước dân chủ phát triển, bao gồm một số “con ông cháu cha”, hay những du học sinh cuối cùng ở Đông Âu XHCN tìm được cơ hội học tập và làm việc ở nước thứ ba. Số khác được đào tạo tại Việt Nam nhưng sau đó có cơ hội làm việc và trưởng thành trong các công ty, tổ chức nước ngoài, thậm chí đang làm việc trong thể chế nhưng bắt buộc phải cọ sát có hệ thống với bên ngoài do công việc đòi hỏi. Nhiều người là du học tự túc.

Sự khác biệt cơ bản của tập hợp này với những người ở phía bên kia lát cắt không hẳn là nền tảng tri thức nghề nghiệp cập nhật, tiếng Anh hoặc phương pháp tổ chức làm việc hiệu quả, vì đó chỉ là những kĩ năng nếu có đầu tư và phương cách đúng là có thể đào tạo được ở Việt Nam.

091015140639_harvard226.jpg?rnd=12581042 

Nhiều người Việt đang được các trường lớn ở phương Tây đào tạo

Khác biệt chính là ý thức của họ về một xã hội dân chủ.

Hoàn cảnh cọ sát học tập và làm việc đã chỉ cho họ một điều rõ ràng rằng “hoàn toàn có thể xây dựng một xã hội ít tham nhũng hơn, con người có cơ hội được đào tạo và chăm sóc sức khỏe tốt hơn nếu vận hành xã hội theo những nguyên tắc kỹ trị trên nền tảng của dân chủ và thượng tôn tam quyền phân lập.

Mặc dù về số lượng họ còn rất nhỏ so với cả một bộ máy cầm quyền, chưa kể bộ máy này còn luôn được bổ sung những “kế cận” là sản phẩm của nền giáo dục lạc hậu đang tạo ra, nhưng nhóm “thiểu số” này có những điểm mạnh tuyệt đối, đó là nó phát triển đúng với xu thế của nhân loại nên được bổ sung liên tục bởi nhiều phần tử trẻ từ lát cắt bên kia, mỗi khi họ có cơ hội đào tạo ở thế giới văn minh và nhận thức lại. Hơn nữa, khát vọng của “tập hợp” này hướng tới chính là ước vọng của cả dân tộc. Khát vọng mà trào lưu cộng sản đã hứa mang đến nhưng thất bại vì chính những phi lí từ nguyên lí của nó.

Thực tế và viễn cảnh

Người Việt chưa có văn hóa phản đối tập thể nhưng việc hàng ngàn cán bộ có năng lực, sau khi được đào tạo, bỏ “khu nhà nước” để ra tư nhân thực chất là họ đã “tỏ thái độ bằng chân” thể hiện sự xung đột mạnh mẽ giữa hai lát cắt này.

090916082218_ids.large226.jpg?rnd=125810 

Viện IDS của nhiều trí thức tự giải thể để phản đối một quyết định của chính phủ

Mâu thuẫn kể trên sẽ bị trầm trọng hóa và biến thành đối kháng khi những vấn đề liên quan tới ngoại xâm và an ninh quốc gia nổi lên, vì lúc đó sự cố kết để giữ quyền lợi của các nhóm quyền lực và lợi ích trở thành vật cản để đất nước cải biến và t

Pour être informé des derniers articles, inscrivez vous :
Commenter cet article